Nguyên Đại sứ Lê Thị Hồng Vân: Hỗ trợ các quốc gia phát triển công nghiệp văn hóa là trọng tâm của hợp tác văn hóa UNESCO

VHO - Nhấn mạnh công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo là xu thế phát triển, vừa là động lực, vừa góp phần trực tiếp mang lại lợi ích cho phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng, quốc gia, trong cuộc trao đổi với Văn Hóa, bà Lê Thị Hồng Vân, nguyên Đại sứ, Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh UNESCO cho biết, theo báo cáo của UNESCO, các ngành công nghiệp sáng tạo đóng góp 3% GDP toàn cầu, đem lại 2,2 nghìn tỉ USD và tạo 30 triệu việc làm hằng năm.

Nguyên Đại sứ Lê Thị Hồng Vân: Hỗ trợ các quốc gia phát triển công nghiệp văn hóa là trọng tâm của hợp tác văn hóa UNESCO - Anh 1

Đại sứ Lê Thị Hồng Vân làm diễn giả tại Tọa đàm quốc tế về vai trò lãnh đạo nữ do UNESCO tổ chức (1.2023)

“Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, hỗ trợ các quốc gia trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo là một trong những trọng tâm chính của hợp tác văn hóa UNESCO…”, bà Lê Thị  Hồng Vân khẳng định. 

P.V: Năm 2023 ghi nhận những  thành công nổi bật của đối ngoại  đa phương Việt Nam tại Tổ chức  UNESCO. Xin bà đánh giá về  nhận định này? 

Nguyên Đại sứ Lê Thị Hồng  Vân: Có thể nói, năm 2023 ghi nhận những dấu mốc lịch sử trong triển khai đối ngoại đa phương của Việt Nam tại Tổ chức UNESCO. Nước ta được tín  nhiệm bầu vào vị trí Phó Chủ tịch Đại  hội đồng UNESCO khóa 42, Phó Chủ tịch Ủy ban liên Chính phủ Công ước  2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật  thể và Phó Chủ tịch Ủy ban liên Chính  phủ Công ước 2005 về bảo vệ và phát huy sự đa dạng các biểu đạt văn hóa. Đặc biệt, Việt Nam đã trúng cử Ủy ban Di sản thế giới nhiệm kỳ 2023-2027 với số phiếu cao nhất khu vực châu Á -  Thái Bình Dương. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam cùng một lúc đảm nhận trọng trách tại 5 cơ chế điều hành then chốt của UNESCO, trong đó có 3 vị trí Phó Chủ tịch. 
Điều này có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt, khẳng định chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng, Nhà nước về đa phương hóa, đa dạng hóa, hội  nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và  hiệu quả, chủ trương đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, như tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng  toàn quốc lần thứ XIII, Chỉ thị số 25- CT/TW của Ban Bí thư và Chiến lược  ngoại giao văn hóa đến năm 2030. Những thành quả này còn minh chứng  cho vị thế và uy tín quốc tế ngày càng  cao của Việt Nam, sự tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với khả năng đóng góp và năng lực điều hành của ta tại các thể chế đa phương toàn cầu.  
Những đóng góp tích cực, có trách nhiệm của Việt Nam thúc đẩy đối  thoại, hợp tác và đồng thuận, tìm lời  giải thoả đáng cho các vấn đề quan tâm  chung trong bối cảnh tình hình quốc  tế phức tạp, được lãnh đạo UNESCO và các nước hoan nghênh. Những kinh nghiệm, hiểu biết và nỗ lực của Việt Nam trong gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa ở cả phương diện lý luận, luật pháp và  thực tiễn được nhiều quốc gia hoan nghênh, mong muốn chúng ta chia sẻ, nhân rộng, đóng góp vào việc thực thi các Công ước văn hóa hiệu quả và thiết thực. Lãnh đạo UNESCO và bạn bè quốc tế nhận xét Việt Nam chính là câu trả lời cho nhiều vấn đề phức tạp của thế giới hiện nay.  
Có thể thấy, những dấu mốc lịch sử trong triển khai đối ngoại đa phương của Việt Nam tại UNESCO vừa qua không chỉ khẳng định vai trò tiên phong của đối ngoại Việt Nam mà còn tiếp tục  thể hiện sức mạnh mềm, vị thế quốc gia. 
Tổng Giám đốc UNESCO Audrey Azoulay từng chia sẻ rất ấn tượng khi được tận mắt chứng kiến sự phong phú và vẻ đẹp của các di sản văn hóa, thiên nhiên thế giới ở Việt Nam trong chuyến thăm Việt Nam đầu tiên vào tháng 9.2022.  

Bà đánh giá như thế nào về vai  trò của các di sản văn hóa được  UNESCO vinh danh? 

Các di sản văn hóa nói riêng và danh hiệu UNESCO nói chung được cộng  đồng quốc tế đánh giá là “danh giá”, vì không chỉ là các tài sản quý báu, phản ánh đậm nét bản sắc của từng quốc gia, dân tộc, mà còn có giá trị ở tầm toàn cầu, thậm chí là di sản của nhân loại. Do vậy, các di sản, danh hiệu UNESCO có tiềm lực lớn trong thu hút du lịch,  thúc đẩy phát triển bền vững, tạo dựng thương hiệu địa phương, nâng cao hình  ảnh và sức mạnh mềm quốc gia.  
Những thách thức gay gắt của thế  kỷ XXI như biến đổi khí hậu, thiên tai,  dịch bệnh, du lịch ồ ạt, sức ép của tăng  trưởng và đô thị hóa, công nghệ mới… đe  dọa làm mai một bản sắc văn hóa, ảnh  hưởng di sản, đòi hỏi cách tiếp cận và phương thức hợp tác mới, sáng tạo. Xu thế chung hiện nay là các quốc gia gia  tăng nỗ lực bảo tồn và phát huy giá trị các di sản để biến tiềm lực thành nguồn  lực, di sản thành tài sản thiết thực phục vụ mục tiêu phát triển bền vững kinh tế  - xã hội của người dân, địa phương và  quốc gia.  
Với 8 di sản văn hóa vật thể, 15  di sản văn hóa phi vật thể, 9 di sản tư liệu và 3 Thành phố sáng tạo toàn cầu được UNESCO ghi danh, chúng  ta tự hào là một trong những quốc gia có nền văn hóa phong phú, đa dạng, đậm  đà bản sắc dân tộc, với những đặc trưng riêng có của từng vùng miền, đóng góp  quan trọng vào kho tàng văn hóa nhân  loại. Trong những năm qua, việc bảo tồn và phát huy giá trị các danh hiệu, di sản UNESCO của chúng ta đạt được nhiều thành tựu, như Tổng Giám đốc UNESCO và Giám đốc Trung tâm Di sản thế giới đã khẳng định: Việt Nam là “điển hình  mẫu mực” của mô hình hài hoà giữa bảo  tồn và phát huy giá trị di sản gắn với phát  triển du lịch bền vững, phát triển kinh tế  và sinh kế của người dân.  

Nguyên Đại sứ Lê Thị Hồng Vân: Hỗ trợ các quốc gia phát triển công nghiệp văn hóa là trọng tâm của hợp tác văn hóa UNESCO - Anh 2

Sự kiện Đêm Di sản Việt Nam do Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng chủ trì (Paris, ngày 17.11.2023)

Phát triển các ngành công  nghiệp văn hóa đang là một trong những nhiệm vụ trọng tâm được thúc đẩy hiện nay. Kinh nghiệm của các thành viên UNESCO trong việc phát huy giá trị di sản văn hóa phục vụ phát triển công nghiệp văn hóa có thể được chia  sẻ là gì, thưa bà? 

Có thể thấy, công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo được đánh giá là xu thế phát triển, vừa là động lực, vừa góp phần trực tiếp mang lại lợi ích cho phát triển kinh tế - xã hội của  cộng đồng, quốc gia. Theo báo cáo của UNESCO, các ngành công nghiệp  sáng tạo đóng góp 3% GDP toàn cầu, đem lại 2,2 nghìn tỉ USD, tạo 30 triệu  việc làm hằng năm.  
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, hỗ trợ các quốc gia trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo là một trong những trọng tâm của hợp tác văn hóa UNESCO, thông qua việc xây dựng và triển khai Công ước 2005 về bảo vệ và phát huy sự đa dạng các biểu đạt văn hóa, Khuyến nghị 1980  về vị thế của nghệ sĩ và Hướng dẫn 2017 về thực thi Công ước 2005 trong môi trường số. Nhiều sáng kiến, hoạt động phong phú, đa dạng đã được triển khai từ năm 2021- năm được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc lấy là Năm quốc tế về kinh tế sáng  tạo vì phát triển bền vững. Từ thực tiễn công tác tại địa bàn, trên cơ sở xu thế của UNESCO và kinh nghiệm của một số quốc gia trong phát huy văn hóa, di sản văn hóa cho phát triển công nghiệp văn hóa, tôi xin chia sẻ một số đề xuất: 
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tư duy mạnh mẽ về vai trò của văn hóa, công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo. Coi truyền thống văn hóa - lịch sử là  một nguồn lực, đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển; coi chính sách văn hóa là đòn bẩy mạnh mẽ cho các hành động của quốc gia. Với đặc trưng sáng tạo và công nghệ, công nghiệp văn hóa là hướng đi mới, thậm chí tạo đột phá trong phát triển kinh tế tri thức, xây dựng nền kinh tế sáng tạo, định vị thương hiệu quốc gia, tạo sức  mạnh văn hóa mới cho quốc gia, góp phần phát triển bền vững đất nước.  
Thứ hai, đẩy mạnh tham gia Mạng lưới các Thành phố sáng tạo toàn  cầu của UNESCO nhằm chia sẻ kinh nghiệm, thúc đẩy hợp tác về công nghiệp sáng tạo. Với 350 thành phố từ hơn 100 quốc gia, mạng lưới này là khuôn khổ hợp tác thúc đẩy sáng tạo  trở thành yếu tố chiến lược cho phát triển bền vững, coi công nghiệp văn hóa là trọng tâm của các kế hoạch phát  triển đô thị. Với 3 Thành phố sáng tạo Hà Nội, Đà Lạt và Hội An, nước ta đã cơ bản hình thành mạng lưới Thành phố sáng tạo quốc gia trong Mạng lưới thành phố sáng tạo toàn cầu. Đây là các trung tâm sáng tạo, động lực quan trọng cho việc xây dựng và hoàn thiện  các chính sách, biện pháp phát triển  công nghiệp văn hóa tại Việt Nam. 
Thứ ba, xây dựng kế hoạch bảo tồn, phát huy giá trị, tận dụng hiệu quả các  di sản văn hóa, với tiêu chí đánh giá cụ  thể về đóng góp cho phát triển kinh tế, phát triển du lịch bền vững của địa  phương và quốc gia. Ở tầm quốc gia, cần gắn kết chính sách công nghiệp  văn hóa sáng tạo trong tổng thể chính  sách phát triển kinh tế - xã hội quốc  gia. Hiện UNESCO đang thúc đẩy triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu, bản  đồ số về các ngành công nghiệp văn hóa, từ đó xây dựng Bộ chỉ tiêu thống  kê quốc tế về các ngành công nghiệp văn hóa. Với vai trò Phó Chủ tịch Ủy ban liên Chính phủ Công ước 2005, ta sẽ có cơ hội tranh thủ hỗ trợ quốc tế xây dựng Bộ chỉ số thống kê quốc gia, hoàn thiện cơ chế tài chính và khuôn  khổ pháp lý cho sự phát triển năng  động, sáng tạo của công nghiệp văn  hóa tại Việt Nam. 
Cùng với đó, các địa phương có danh hiệu, di sản cần có kế hoạch bảo tồn, phát huy giá trị di sản với các chỉ tiêu định lượng cụ thể, nhất là phát triển  du lịch gắn kết chặt chẽ với văn hóa, con người và lịch sử, góp phần đưa “di  sản” thành “tài sản”, biến “tiềm lực”  thành “nguồn lực”, để văn hóa, di sản  thực sự trở thành sức mạnh nội sinh,  nguồn lực quan trọng để phát triển  kinh tế - xã hội bền vững. 
Thứ tư, tăng cường các mối quan hệ đối tác, hợp tác quốc tế, quan hệ  đối tác công - tư để kết nối các di sản, các danh hiệu UNESCO phục vụ phát  triển kinh tế, du lịch bền vững. Có thể cân nhắc kết nối ở từng tỉnh thành, địa phương để tạo sức mạnh tổng thể, ví dụ: Hà Nội vừa là Thành phố vì hòa  bình, Thành phố sáng tạo gắn với Di  sản thế giới Hoàng thành - Thăng Long. Nhiều quốc gia, khu vực tăng  cường kết nối theo danh hiệu để chia  sẻ kinh nghiệm quản lý, tăng cường  kết nối du lịch như Hành trình di sản  châu Âu, Mạng lưới các khu di sản lớn  của Pháp… 
Thứ năm, cần có các hoạt động, chiến lược quảng bá địa phương, đất  nước có trọng tâm, trọng điểm và trọng lượng. Theo đó, cần có chiến  lược quảng bá Việt Nam tập trung 4-5  lĩnh vực nổi trội, tại 4-5 địa bàn trọng điểm để giới thiệu hình ảnh, bản sắc và gia tăng sức hấp dẫn, thuyết phục  của sức mạnh mềm văn hóa Việt  Nam. Đồng thời cũng cần tận dụng các lợi thế của công nghệ số để quảng bá hiệu quả các sản phẩm của công nghiệp văn hóa, lan tỏa giá trị văn hóa  đặc sắc Việt Nam. 

Nỗ lực quảng bá đất nước và  con người Việt Nam bằng văn hóa  và từ văn hóa, tăng cường phát  huy sức mạnh mềm thông qua  văn hóa đã góp phần ngày càng  gia tăng vị thế và uy tín của Việt  Nam trên trường quốc tế. Xin bà  đánh giá về nhận định này? 

Nhận định này hoàn toàn chính xác. Với hàng ngàn năm lịch sử và truyền thống văn hóa độc đáo, với 65 danh hiệu UNESCO trải rộng trên tất cả 63  tỉnh, thành phố, Việt Nam có đóng  góp đáng kể vào việc làm phong phú thêm, bảo vệ và phát huy kho tàng văn hóa nhân loại.  
Năm 2023 cũng là năm có nhiều  sự kiện quan trọng của Việt Nam  được tổ chức tại Trụ sở UNESCO, góp phần quảng bá, lan tỏa các giá  trị văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Ba sự kiện Đêm Di sản và văn hóa Việt Nam do Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng, Chủ tịch Ủy ban quốc gia UNESCO Hà Kim Ngọc và Phái đoàn Việt Nam bên cạnh UNESCO chủ trì  trong năm đã tôn vinh vẻ đẹp, sự phong phú của truyền thống, sự đa dạng, đặc sắc và chiều sâu của văn  hóa Việt Nam, chuyển tải thông điệp mạnh mẽ về một đất nước năng động trong đổi mới, hội nhập, song cũng giàu truyền thống và đậm đà bản sắc dân tộc. 

Xin trân trọng cảm ơn bà!

 PHƯƠNG ANH thực hiện

Ý kiến bạn đọc